Tiên lượng thấp là gì? Các công bố khoa học về Tiên lượng thấp

Tiên lượng thấp là dự đoán không khả quan về diễn biến bệnh lý của bệnh nhân, thường áp dụng trong trường hợp ung thư giai đoạn cuối hoặc biến chứng y học cấp cứu. Yếu tố ảnh hưởng bao gồm tuổi tác, giới tính, tiền sử bệnh lý, và phong cách sống. Khi tiên lượng thấp, mục tiêu từ điều trị khỏi bệnh chuyển sang chăm sóc giảm nhẹ, tập trung cải thiện chất lượng cuộc sống. Điều này giúp bác sĩ và gia đình chuẩn bị tâm lý và định hướng kế hoạch điều trị tốt hơn, mặc dù tiên lượng không luôn chính xác.

Tiên Lượng Thấp: Khái Niệm và Ý Nghĩa

Trong các lĩnh vực như y tế, tiên lượng thấp thường được hiểu là sự dự đoán không khả quan về diễn biến tương lai của một bệnh lý hoặc tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Thuật ngữ này có thể được áp dụng trong nhiều ngữ cảnh khác nhau, từ bệnh ung thư giai đoạn cuối đến các biến chứng nặng trong y học cấp cứu.

Ứng Dụng của Tiên Lượng Thấp trong Y Tế

Tiên lượng thấp thường được bác sĩ sử dụng khi các dấu hiệu lâm sàng cho thấy khả năng sống sót hoặc cải thiện sức khỏe của bệnh nhân là rất thấp. Điều này có thể do nhiều yếu tố bao gồm:

  • Tình trạng bệnh lý ở giai đoạn muộn hoặc không thể điều trị hiệu quả.
  • Phản ứng kém đối với các phương pháp điều trị hiện có.
  • Các bệnh lý nền làm giảm khả năng hồi phục của bệnh nhân.

Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Tiên Lượng Thấp

Nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến tiên lượng của một tình trạng. Một số yếu tố chính bao gồm:

  • Độ tuổi và giới tính: Một số bệnh lý có tiên lượng xấu hơn ở một số nhóm tuổi hoặc giới tính nhất định.
  • Tiền sử bệnh lý: Các bệnh lý nền hoặc tiền sử bệnh nghiêm trọng có thể tác động tới khả năng hồi phục.
  • Tình trạng lâm sàng hiện tại: Mức độ tiến triển của bệnh tại thời điểm chẩn đoán có thể quyết định tiên lượng.
  • Phong cách sống: Các yếu tố như khả năng đáp ứng điều trị, thói quen sinh hoạt và chế độ dinh dưỡng cũng đóng vai trò quan trọng.

Tác Động Của Tiên Lượng Thấp Đối Với Quyết Định Điều Trị

Khi đối mặt với tiên lượng thấp, các chuyên gia y tế thường phải đưa ra những quyết định khó khăn về kế hoạch điều trị. Trong nhiều trường hợp, mục tiêu chuyển từ điều trị khỏi bệnh sang chăm sóc giảm nhẹ, tập trung vào việc cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Điều này có thể bao gồm:

  • Giảm thiểu triệu chứng đau đớn và khó chịu.
  • Đảm bảo chế độ dinh dưỡng và chăm sóc tâm lý tốt nhất có thể.
  • Hỗ trợ tinh thần cho bệnh nhân và gia đình.

Kết Luận

Tiên lượng thấp là một khía cạnh quan trọng trong quá trình chăm sóc sức khỏe, giúp định hướng cho các quyết định lâm sàng và kế hoạch điều trị. Mặc dù không phải lúc nào tiên lượng cũng chính xác, nó vẫn là công cụ hữu ích để hỗ trợ các bác sĩ và gia đình bệnh nhân trong việc chuẩn bị cho tương lai.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tiên lượng thấp":

Cam kết hoàn tiền: Giúp đỡ nhà bán lẻ chất lượng thấp Dịch bởi AI
Management Science - Tập 58 Số 8 - Trang 1521-1524 - 2012
Tài liệu hiện có, dựa trên lý thuyết tín hiệu, đề xuất rằng các cam kết hoàn tiền (MBGs) sẽ được các công ty chất lượng cao sử dụng, trong đó chất lượng cao được định nghĩa là khả năng trả lại sản phẩm thấp. Tuy nhiên, trong thế giới ngày nay, các cam kết hoàn tiền rất phổ biến trong số các nhà bán lẻ lớn, ngay cả khi khả năng trả lại sản phẩm dao động rất lớn giữa họ. Để hiểu hiện tượng này, chúng tôi khám phá một môi trường cạnh tranh giữa các nhà bán lẻ chất lượng cao và chất lượng thấp, nơi mà người tiêu dùng hoàn toàn được thông tin và không có rủi ro, và các nhà bán lẻ nhận ra giá trị thu hồi cho các sản phẩm đã được trả lại. Khi các cam kết hoàn tiền có lãi, dưới nhu cầu liên tục, đây là trạng thái cân bằng Nash cho cả hai nhà bán lẻ để cung cấp các cam kết hoàn tiền, và nhà bán lẻ chất lượng thấp đạt lợi nhuận trong khi nhà bán lẻ chất lượng cao mất lợi nhuận so với khi không cung cấp các cam kết hoàn tiền. Ngược lại, nếu nhu cầu không liên tục, các nhà bán lẻ có thể hoạt động độc quyền trên các phân khúc thị trường tương ứng của họ, cho phép cả hai nhà bán lẻ đều có lợi từ các cam kết hoàn tiền, mặc dù nhà bán lẻ chất lượng thấp vẫn thu được nhiều lợi ích hơn.Bài báo này đã được chấp nhận bởi J. Miguel Villas-Boas, chuyên ngành marketing.
Phương pháp thích ứng cho việc phát video VR 360 độ với độ trễ thấp qua HTTP/2 Dịch bởi AI
2018 IEEE Seventh International Conference on Communications and Electronics (ICCE) - - Trang 261-266 - 2018
Công nghệ Thực tế Ảo (VR), đặc biệt là video VR 360 độ, hiện đang là một chủ đề nóng nhờ vào trải nghiệm nhập vai mà nó mang lại, so với các ứng dụng đa phương tiện truyền thống, như cho phép người dùng trải nghiệm cuộc sống thực gần gũi qua góc nhìn toàn cảnh. Tuy nhiên, việc truyền tải video VR 360 tiêu tốn một băng thông khổng lồ. Ngoài ra, cách giảm độ trễ khi phát video VR 360 cũng là một vấn đề cần giải quyết. Để khắc phục hai thách thức này, trong bài báo này, chúng tôi giới thiệu một phương pháp phát video VR 360 thích ứng hiệu quả thông qua HTTP/2 với các tính năng ưu tiên luồng và dừng luồng. Để hỗ trợ tính thích ứng, video VR 360 được chia thành nhiều mặt và mỗi mặt được chia thành các đoạn tạm thời. Video cũng được lưu trữ tại máy chủ với các mức chất lượng khác nhau. Trong phương pháp của chúng tôi, chúng tôi tập trung vào kịch bản độ trễ thấp và do đó tất cả các mặt được tải về đồng thời bằng cách sử dụng tính năng ưu tiên của HTTP/2 và khách hàng giải mã chúng dựa trên Nhóm Hình ảnh (GOP). Nếu băng thông giảm đột ngột, khách hàng sẽ ngắt đồng bộ và thông báo cho máy chủ để liên tục truyền tải các mặt dựa trên ưu tiên của chúng. Ngoài ra, tính năng dừng luồng có thể được sử dụng để kết thúc các phần nội dung mà sẽ bị trễ hạn. Kết quả thực nghiệm cho thấy, khi bộ đệm ban đầu được thiết lập là 0,5 giây, chỉ có 0,08% số lượng GOP ở mặt trước bị trễ hạn trong phương pháp mà chúng tôi đề xuất, so với các giá trị lần lượt là 0,75% và 3,34% của hai phương pháp tham chiếu.
#Truyền phát video VR #HTTP/2 #Thực tế ảo #Truyền phát thích ứng HTTP #Ưu tiên luồng #Dừng luồng.
Kết quả thụ tinh ống nghệm của nhóm bệnh nhân “tiên lượng thấp” theo phân loại POSEIDON
Tạp chí Phụ Sản - Tập 15 Số 4 - Trang 69 - 75 - 2018
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thai diễn tiến cộng dồn khi điều trị thụ tinh ống nghiệm của các bệnh nhân tiên lượng thấp theo phân loại POSEIDON. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu thực hiện trên các bệnh nhân thụ tinh ống nghiệm được chẩn đoán là tiên lượng thấp theo phân loại POSEIDON (I, II, III, IV), từ tháng 01/2014 đến tháng 12/2016 tại IVFMD, Bệnh viện Mỹ Đức. Các trường hợp không chọc hút noãn và xin noãn bị loại khỏi nghiên cứu. Kết quả: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm phân loại theo POSEIDON về các đặc điểm cơ bản và đáp ứng buồng trứng. Tỷ lệ thai diễn tiến cộng dồn sau khi sử dụng toàn bộ phôi từ một chu kỳ KTBT của nhóm I là 28,2%, nhóm II là 18,9%, nhóm III là 11,9% và nhóm IV là 16,5%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm phân loại với P < 0,001. Kết luận: Nghiên cứu bước đầu ghi nhận khả năng phân loại của tiêu chuẩn POSEIDON khá tốt ở đặc điểm đáp ứng buồng trứng và kết quả thai của nhóm bệnh nhân có “tiên lượng thấp”. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để thực hiện các nghiên cứu tiến cứu tiếp theo nhằm đưa ra các chiến lược điều trị cá thể hóa, cải thiện cơ hội thành công cho nhóm bệnh nhân tiên lượng thấp này.
#phân loại POSEIDON #đáp ứng kém #tiên lượng thấp #tỷ lệ thai diễn tiến #thụ tinh ống nghiệm.
Kết quả thụ tinh ống nghệm của nhóm bệnh nhân “tiên lượng thấp” theo phân loại POSEIDON
Tạp chí Phụ Sản - Tập 17 Số 1 - Trang 68 - 74 - 2019
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thai diễn tiến cộng dồn khi điều trị thụ tinh ống nghiệm của các bệnh nhân tiên lượng thấp theo phân loại POSEIDON. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu thực hiện trên các bệnh nhân thụ tinh ống nghiệm được chẩn đoán là tiên lượng thấp theo phân loại POSEIDON (I, II, III, IV), từ tháng 01/2014 đến tháng 12/2016 tại IVFMD, Bệnh viện Mỹ Đức. Các trường hợp không chọc hút noãn và xin noãn bị loại khỏi nghiên cứu. Kết quả: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm phân loại theo POSEIDON về các đặc điểm cơ bản và đáp ứng buồng trứng. Tỷ lệ thai diễn tiến cộng dồn sau khi sử dụng toàn bộ phôi từ một chu kỳ KTBT của nhóm I là 28,2%, nhóm II là 18,9%, nhóm III là 11,9% và nhóm IV là 16,5%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm phân loại với P < 0,001. Kết luận: Nghiên cứu bước đầu ghi nhận khả năng phân loại của tiêu chuẩn POSEIDON khá tốt ở đặc điểm đáp ứng buồng trứng và kết quả thai của nhóm bệnh nhân có “tiên lượng thấp”. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để thực hiện các nghiên cứu tiến cứu tiếp theo nhằm đưa ra các chiến lược điều trị cá thể hóa, cải thiện cơ hội thành công cho nhóm bệnh nhân tiên lượng thấp này.
#phân loại POSEIDON #đáp ứng kém #tiên lượng thấp #tỷ lệ thai diễn tiến #thụ tinh ống nghiệm.
So sánh hiệu quả và độ an toàn của rivaroxaban và heparin trọng lượng phân tử thấp ở bệnh nhân ung thư phổi người Trung Quốc có thuyên tắc phổi không nguy cơ cao Dịch bởi AI
Thrombosis Journal -
Tóm tắt Đặt vấn đề Dữ liệu hướng dẫn việc lựa chọn các chế độ điều trị chống đông khác nhau cho thuyên tắc tĩnh mạch (VTE) liên quan đến ung thư còn thiếu. Chúng tôi nhằm mục tiêu so sánh hiệu quả và độ an toàn của rivaroxaban và heparin trọng lượng phân tử thấp (LMWH) đối với thuyên tắc phổi không nguy cơ cao (PE) ở bệnh nhân ung thư phổi người Trung Quốc. Phương pháp Bốn trăm bốn mươi sáu bệnh nhân ung thư phổi người Trung Quốc có thuyên tắc phổi không nguy cơ cao đã khởi đầu điều trị bằng rivaroxaban hoặc LMWH được xác định từ cơ sở dữ liệu Bệnh viện Trung Sơn từ năm 2016 đến 2020. Các kết quả chính là sự kiện tổng hợp của tái phát VTE hoặc chảy máu lớn, và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân. Các kết quả thứ cấp bao gồm tái phát VTE, chảy máu lớn và chảy máu không lớn có ý nghĩa lâm sàng (CRNMB). Phương pháp ghép cặp theo điểm có khả năng được sử dụng để cân bằng các biến gốc. Chúng tôi tiến hành phân tích độ nhạy bằng cách ổn định trọng số xác suất điều trị ngược và phân tích rủi ro cạnh tranh bằng mô hình rủi ro phân phối phụ của Fine và Gray. Kết quả Trong các nhóm được ghép cặp theo điểm, rivaroxaban tương đương với LMWH về các rủi ro của kết quả tổng hợp (tỷ lệ rủi ro (HR), 0.73; khoảng tin cậy (CI) 95%, 0.45–1.21; P = 0.22), tái phát VTE (HR, 0.69; CI 95%, 0.36–1.34; P = 0.28), chảy máu lớn (HR, 0.79; CI 95%, 0.37–1.68; P = 0.54) và CRNMB (HR, 1.13; CI 95%, 0.62–2.09; P = 0.69). Tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân thấp hơn đáng kể ở nhóm rivaroxaban so với nhóm LMWH (HR, 0.52; CI 95%, 0.36–0.75; P < 0.001). Các kết quả chính và thứ cấp đều có lợi cho rivaroxaban so với LMWH trong tất cả các nhóm trừ thuyên tắc phổi trung tâm và thuyên tắc phổi nguy cơ trung bình. Phân tích độ nhạy cho kết quả tương tự, và phân tích rủi ro cạnh tranh đồng nhất với các phát hiện chính. Kết luận Rivaroxaban có thể là một lựa chọn hứa hẹn thay thế cho LMWH trong điều trị khởi đầu thuyên tắc phổi không nguy cơ cao ở bệnh nhân ung thư phổi.
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SIÊU ÂM DOPPLER NĂNG LƯỢNG KHỚP CỔ TAY BỆNH NHÂN VIÊM KHỚP DẠNG THẤP ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 2 - 2022
Đánh giá mức độ hoạt động bệnh có vai trò quan trọng trong điều trị và theo dõi bệnh nhân viêm khớp dạng thấp. Mục đích: (1) Mô tả đặc điểm siêu âm Doppler năng lượng khớp cổ tay bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, (2) Xác định một số yếu tố liên quan giữa hình ảnh tổn thương khớp cổ tay trên siêu âm Doppler năng lượng với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang được thực hiện trên 103 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp tại khoa cơ xương khớp Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An. Kết quả: Mức độ tăng sinh mạch khớp cổ tay trên PDUS mức độ 1 (tăng sinh nhẹ) chiếm 58,25%, mức độ 2 (tăng sinh trung bình) là 24.27% và 7,70% ở mức độ 3 (tăng sinh mạnh). Mức độ tăng sinh mạch theo thang điểm bán định lượng trên siêu âm Doppler năng lượng khớp cổ tay bệnh nhân viêm khớp dạng thấp có mối liên quan có ý nghĩa với các yếu tố phản ánh mức độ hoạt động bệnh trên lâm sàng và xét nghiệm là số khớp sưng, số khớp đau, VAS toàn thể, nồng độ CRP và các chỉ số đánh giá mức độ hoạt động bệnh thường được sử dụng là DAS28-CRP. Kết luận: Siêu âm Doppler năng lượng khớp cổ tay có thể được sử dụng như một phương pháp để đo lường mức độ hoạt động bệnh viêm khớp dạng thấp.
#viêm khớp dạng thấp #khớp cổ tay #lâm sàng #cận lâm sàng
SO SÁNH KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ DỰ PHÒNG HUYẾT KHỐI SAU PHẪU THUẬT BẰNG HEPARIN TRỌNG LƯỢNG PHÂN TỬ THẤP VÀ RIVAROXABAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 2 - 2022
Mục tiêu: So sánh kết quả điều trị dự phòng huyết khối tĩnh mạch sau phẫu thuật bằng heparin trọng lượng phân tử thấp (LMWH) và rivaroxaban. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 30.010 NB phẫu thuật >18 tuổi từ 1/1/2017 đến 31/9/2018 được điều trị chống đông bằng LMWH hoặc rivaroxaban. Trong đó 25479 NB dự phòng bằng LMWH và 4531 NB dự phòng bằng rivaroxaban. Kết quả nghiên cứu: Nhóm NB bị HKTM sau phẫu thuật của nhóm LMWH 0,6% (146/25479) cao hơn nhóm rivaroxaban 0,3% (15/4531) và tỉ lệ NB mắc HKTM trong 90 ngày sau ra viện của nhóm LMWH 0,5% (138/25479) cao hơn nhóm rivaroxaban 0,3% (14/4531). Có 6,2% (1585/25479) NB dự phòng LMWH có xuất hiện biến chứng xuất huyết nhiều hơn nhóm rivaroxaban có 4,5% (206/4531). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Kết luận: Rivaroxaban làm giảm tỷ lệ tái phát HKTM và không làm tăng nguy cơ xuất huyết ở BN sau phẫu thuật so với LMWH, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
#rivaroxaban #LMWH #Heparin trọng lượng phân tử thấp #surgery
Bệnh nhân có nhiều bệnh mãn tính không nhận được chất lượng chăm sóc phòng ngừa thấp hơn Dịch bởi AI
Journal of General Internal Medicine - - 2008
Các tác động của việc đo lường và thưởng cho hiệu suất với bệnh nhân có nhiều bệnh mãn tính chưa được khám phá một cách thực nghiệm. Để xem xét liệu số lượng bệnh mãn tính có liên quan đến việc bệnh nhân có nhận được chăm sóc phòng ngừa được khuyến nghị hay không, chúng tôi đã đánh giá mối liên quan giữa khả năng nhận được chăm sóc phòng ngừa được khuyến nghị và số lượng bệnh mãn tính ở dân số đái tháo đường bằng cách phân tích Dữ liệu Khảo sát Chi phí Y tế năm 2003 bằng hồi quy logistic. Các đặc điểm nhân khẩu học và số lượng bệnh mãn tính đã được so sánh bằng các kiểm định χ2. Xét nghiệm Hemoglobin A1C và kiểm tra mắt ở bệnh nhân đái tháo đường. Năm 2003, khoảng 14,2 triệu người Mỹ không sống trong cơ sở y tế có bệnh đái tháo đường và 23% trong số họ có năm hoặc nhiều hơn các bệnh mãn tính bên cạnh đái tháo đường. Những bệnh nhân này có khả năng nhận được xét nghiệm Hemoglobin A1C và kiểm tra mắt cao hơn 67% (p < 0,05) và 50% (p < 0,001) so với những bệnh nhân đái tháo đường không có bệnh mãn tính bổ sung. Sau khi điều chỉnh cho số lượng lần khám bác sĩ tại văn phòng, số lượng bệnh mãn tính cao hơn không làm ảnh hưởng đáng kể đến khả năng nhận được chăm sóc khuyến nghị. Bệnh nhân đái tháo đường với nhiều bệnh mãn tính có nhiều lần khám bác sĩ tại văn phòng hơn (p < 0,0001), và những bệnh nhân có 11 lần khám bác sĩ tại văn phòng hàng năm trở lên có khả năng nhận được xét nghiệm Hemoglobin A1C và kiểm tra mắt cao hơn 43% (p < 0,05) và 40% (p < 0,01) so với bệnh nhân đái tháo đường có ít hơn hai lần khám bác sĩ tại văn phòng. Các bệnh nhân đái tháo đường có nhiều bệnh mãn tính có thể nhận được chất lượng chăm sóc phòng ngừa tốt hơn, một phần nhờ vào số lần khám bác sĩ tại văn phòng cao hơn của họ.
#bệnh mãn tính #chăm sóc phòng ngừa #bệnh đái tháo đường #sức khỏe cộng đồng #khảo sát y tế
Sự khuếch đại tái diễn của MYC và TNFRSF11B ở 8q24 liên quan đến tỷ lệ sống thấp ở bệnh nhân ung thư dạ dày Dịch bởi AI
Gastric Cancer - Tập 19 - Trang 116-127 - 2015
Ung thư dạ dày (GC) là một loại khối u ác tính hung hãn mà các cơ chế phát triển và tiến triển của nó vẫn chưa được hiểu rõ. Việc xác định các vùng gen và gen có liên quan đến tiên lượng có thể gặp khó khăn do số lượng ca bệnh tương đối nhỏ và thiếu sự xác nhận hệ thống trong các nghiên cứu trước đây. Phân tích lai gen so sánh dựa trên ảnh (aCGH) kết hợp với thông tin lâm sàng của bệnh nhân đã được áp dụng để xác định các vùng gen và gen liên quan đến tiên lượng có tần suất tái phát cao ở 129 bệnh nhân ung thư dạ dày. Các vùng gen và gen ứng cử sau đó được xác nhận bằng cách sử dụng một nhóm độc lập gồm 384 bệnh nhân thông qua phân tích khuếch đại tín hiệu DNA phân nhánh (các xét nghiệm QuantiGene). Ở 129 bệnh nhân, sự tăng số lượng bản sao của ba vùng nhiễm sắc thể—cụ thể là, 8q22 (bao gồm ESRP1 và CCNE2), 8q24 (bao gồm MYC và TNFRSF11B), và 20q11-q13 (bao gồm SRC, MMP9, và CSE1L)—dẫn đến tỷ lệ sống sót thấp hơn ở bệnh nhân. Ngoài ra, sự tương quan giữa kết quả phân tích khuếch đại tín hiệu DNA phân nhánh và kết quả aCGH đã được phân tích ở 73 trong số 129 bệnh nhân này, và MYC, TNFRSF11B, ESRP1, CSE1L, và MMP9 được phát hiện có sự tương quan tốt. Việc xác thực thêm bằng cách sử dụng một nhóm độc lập (n = 384) đã xác nhận rằng chỉ có MYC và TNFRSF11B ở vùng 8q24 có liên quan đến tỷ lệ sống. Bệnh nhân có sự tăng trưởng cả MYC và TNFRSF11B có tỷ lệ sống thấp hơn so với những người không có sự tăng trưởng, đặc biệt là những người có ung thư dạ dày không phải tim. Sự tăng trưởng ở cả hai gen này cũng là một chỉ số tiên lượng độc lập quan trọng. Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng sự tăng số lượng bản sao của MYC và TNFRSF11B nằm ở 8q24 có liên quan đến tỷ lệ sống ở ung thư dạ dày, đặc biệt là ung thư dạ dày không phải tim.
#ung thư dạ dày #MYC #TNFRSF11B #tiên lượng #khuếch đại gen #aCGH
Tỷ Lệ Hạch Bạch Huyết Có Giá Trị Dự Đoán Thấp Hơn Trong U Chân Khi Không Đạt Ngưỡng Lấy Hạch Tối Thiểu Dịch bởi AI
Annals of Surgical Oncology - Tập 24 - Trang 340-346 - 2016
Tỷ lệ hạch bạch huyết (LNR), được tính bằng số hạch dương tính chia cho số hạch được kiểm tra, đã được đề xuất để dự đoán tiên lượng trong bệnh u chân nhằm giảm thiểu các vấn đề với số lượng hạch thấp. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu LNR có cung cấp tiên lượng tốt hơn so với tổng số hạch dương tính và số hạch được kiểm tra hay không. Hơn nữa, giá trị tiên lượng của LNR có thể thay đổi nếu một ngưỡng số lượng hạch được kiểm tra. Chúng tôi đã đánh giá xem LNR có tiên đoán tốt hơn so với số hạch dương tính và số hạch được kiểm tra hay không, cũng như liệu giá trị tiên lượng của LNR có thay đổi với các ngưỡng tối thiểu hay không. Sử dụng Tệp Người Dùng Tham Gia của Cơ sở Dữ liệu Ung thư Quốc gia, chúng tôi đã xác định 74.692 trường hợp mới với phẫu thuật lấy hạch trong giai đoạn 2000–2006. Chúng tôi so sánh LNR với số lượng hạch được kiểm tra và hạch dương tính dựa trên C của Harrell, một chỉ số về khả năng dự đoán. Sau đó, chúng tôi phân tầng theo số lượng hạch được kiểm tra: lớn hơn so với ít hơn mười hạch cho phẫu thuật lấy hạch nách (ALND) và lớn hơn so với ít hơn năm hạch cho phẫu thuật lấy hạch bẹn (ILND). Tổng thể, LNR có giá trị C của Harrell là 0,628 (khoảng tin cậy [CI] 95% 0,625–0,631). Số hạch được kiểm tra và hạch dương tính không có sự khác biệt đáng kể so với điều này, với giá trị C của Harrell là 0,625 (CI 95% 0,621–0,630). Trong ALND, LNR có giá trị C của Harrell là 0,626 (CI 95% 0,610–0,643) với ≥10 hạch so với 0,554 (CI 95% 0,551–0,558) cho <10 hạch. Trong ILND, LNR có giá trị C của Harrell là 0,679 (CI 95% 0,664–0,694) với ≥5 hạch so với C là 0,601 (CI 95% 0,595–0,606) cho <5 hạch. LNR không cung cấp độ ưu tiên về tiên lượng so với các số lượng hạch được kiểm tra và hạch dương tính. Hơn nữa, giá trị tiên lượng của LNR giảm đi khi không đạt được các ngưỡng lấy hạch tối thiểu.
#Tỷ lệ hạch bạch huyết #u chân #dự đoán tiên lượng #phẫu thuật #ngưỡng lấy hạch
Tổng số: 33   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4